Henry Ford từng nhận định: “mọi khách hàng đều có thể có được một chiếc xe với màu sơn mà anh ta mong muốn, miễn sao nó có màu đen”. Tại thời đại maketing 1.0, người tiêu dùng không có quyền quyết định thứ mình muốn, nói cách khác họ chỉ được mua sản phẩm doanh nghiệp cung cấp. Nếu bạn là chủ doanh nghiệp thời kì đó khẳng định bạn rất giàu. Năm 1969, internet ra đời, công nghệ thông tinh trở thành chiến binh mạnh mẽ, mang đến cơn sốt công nghệ toàn cầu. Từ đó maketing cũng dấn vào cuộc đua thay đổi toàn diện. Với mỗi người trong thời kì đó, người tiêu dùng mới là kẻ “thống trị” quyết định sản xuất cái gì.
Maketing 2.0 và cuộc đổi vận của đế chế người tiêu dùng
Nhờ công nghệ thông tin, người tiêu dùng được cập nhật liên tục thông tin, thị trường phân khúc, xuất hiện đánh giá sản phẩm, người tiêu dùng có nhiều quyền lựa chọn hơn bao giờ hết.
Tiến lên bậc cao hơn trong tháp nhu cầu, họ bắt đầu có quy tắc trong quá trình lựa chọn sản phẩm, cảm xúc thỏa mãn nhu cầu dần hình thành hoàn chỉnh buộc chuyên gia maketing luôn cố gắng tìm hiểu để chạm đến mạch nguồn đó.
Doanh nghiệp luôn hướng đến cung cấp giá trị thỏa mãn và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng. Với doanh nghiệp, người tiêu dùng và trung tâm của mọi hoạt động maketing. Với các chuyên gia, người tiêu dùng là khách hàng thông minh, mọi hành vi của họ là kết hợp từ tim và não. Để nổi bật, maketer phải luôn có ý tưởng tạo nên sự khác biệt, định vị được doanh nghiệp và sản phẩm.
Ví dụ cho bộ nguyên tắc marketing này được vận dụng trong sản phẩm dầu gội: DOVE mang đến thông điệp là những là phục hồi tóc hư tổn, CLEAR là chiến binh dọn sạch gầu và bụi bẩn, PANTENE nuôi dưỡng mái tóc óng mượt. Với mỗi thông điệp, doanh nghiệp đã định vị được vai trò bản thân trong tiềm thức người tiêu dùng.
Sản xuất phim quảng cáo – chiến lược đắt giá trong Maketing 2.0.
Vai trò của công nghệ thông tin là trao cơ hội thể hiện, định vị bản thân cho doanh nghiệp. Giờ đây doanh nghiệp trở nên đa màu hơn, không chỉ đơn giản kiểu “hữu xạ tự nhiên hương”, mà còn là hình khối được phát tán phổ cập rộng rãi trong cộng đồng người xem truyền hình. Đó là thành quả TVC mang lại.
14:29 ngày 1 tháng 7 năm 1942, quảng cáo truyền hình được phát sóng lần đầu tiên tại Mỹ. Đoạn phim kéo dài 20 giây chỉ có cảnh đơn giản là chiếc đồng hồ Bulova nằm trên tấm bản đồ và câu khẩu hiệu của hãng. Kỉ nguyên làm phim quảng cáo chính thức bắt đầu. Vô vàn đoạn phim được sản xuất. Quảng cáo mang nhiều đặc tính riêng, có loại thu hút người xem bời giai điệu bắt tai, loại lôi cuốn người đọc bằng hình ảnh sống động hoặc cụm từ gây “sốc”.
Doanh nghiệp đang ngủ trên vàng. Với mỗi TVC đọng lại trong tâm trí người xem họ bán được hàng ngàn sản phảm, thu về hàng tỉ đô và nhận về hàng tỉ mối quan hệ tốt đẹp với người tiêu dùng. TVC được ưa chuộng và là cách nhanh nhất đưa tên tuổi doanh nghiệp lan rộng nhanh chóng.
Theo từng thời kì maketing có “bùa chú” riêng thôi miên khách hàng. Dù xuất phát của cuộc cách mạng có đến từ những nguyên nhân khác nhau thì nó cũng có chung một đặc điểm là thay đổi, thay đổi và nỗ lực thay đổi.